La Gioconda

Tiêu chuẩn
Họa sĩ Đức Hòa

 

Tranh đã 500 tuổi và giờ đây hầu như cả thế giới mặc nhiên coi đó là bức tranh đẹp nhất. Nhưng nếu bỗng có câu hỏi rằng: “Thế nó đẹp ở chỗ nào?” thì chắc gì đã có ai dám đứng ra trả lời đến nơi đến chốn, bởi cái đẹp là tùy mỗi người, nào ai cân-đong-đo-đếm làm gì. Tuy nhiên, trừ những người cùn hoặc cố tình trả lời qua quýt, còn với những thầy dạy môn Lịch sử Mỹ thuật thì đây là chuyện hết sức nghiêm túc và cần có lý giải thỏa đáng.

Do có may mắn nhiều lần được xem tranh trực tiếp, lại đọc nhiều sách có liên quan cũng như đã giảng dạy môn Lịch sử Mỹ thuật được vài năm nên chúng tôi xin mạo muội thử liều góp sức lý giải câu hỏi hóc búa trên đây. Rất mong các đồng nghiệp cùng tham gia tranh biện và chỉ bảo…

Nhưng trước hết, thiết tưởng ta phải xem Hồ sơ Tác giả và Tác phẩm trước đã chứ?

 

Hồ sơ tác giả LEONARDO DA VINCI
(Tiểu sử tóm tắt)

1. Họ tên: Leonardo da Vinci (tiếng Ý), nghĩa là Leonardo đến từ Vinci.
Leonard de Vinci (tiếng Pháp, cũng nghĩa như trên), là tên mà người Việt quen dùng do được biết đến vĩ nhân này từ thời Pháp thuộc, phiên âm ra là Lêôna đờ Vanhxi.
Nhưng Leonardo di ser Piero da Vinci mới là tên chuẩn và đầy đủ, nghĩa là Leonardo, con trai của ngài Piero, đến từ Vinci.

2. Vinci là một thị trấn – trước đây 5 thế kỷ còn là một làng, cách 30km về phía Tây thành phố Firenzé (tiếng Pháp gọi là Florence- trung tâm trọng yếu về văn hóa, khoa học, nghệ thuật thời Phục Hưng), nay thuộc tỉnh Firenzé, xứ Tuscany, vùng Trung-Bắc nước Ý. Chính xác hơn thì Leonardo không sinh ra ở Vinci mà tại trang trại Anchiano cách đó 3km.

3. Sinh: 15. 4. 1452 tại Anchiano, ngoại vi Vinci, tỉnh Firenzé, xứ Tuscany, Ý.

4. Mất: 2. 5. 1519 tại Amboise, tỉnh Indre-et-Loire, vùng Trung tâm nước Pháp.

5. Tình trạng hôn nhân: độc thân suốt đời, không có bạn gái.

6. Nghề nghiệp: họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, kỹ sư công binh, nhà giải phẫu, nhà toán học, hóa học, vật lý học, triết học, thiên văn học, nhà thơ, nhà văn, nhạc công, ca sĩ, nhà phát minh-sáng chế … nghề nào ông cũng thuộc loại giỏi nhất nhì thời Phục Hưng.

7. Nguồn gốc gia đình: con ngoài giá thú của công chứng viên giàu có Piero (năm đó 25 tuổi) và cô thôn nữ Catarina (năm đó 22 tuổi). Vì không môn đăng hộ đối nên bố không lấy mẹ, mẹ đi lấy chồng khác. Ông ngoại nuôi từ khi cai sữa, ông nội nuôi từ tuổi nhi đồng đến tuổi thiếu niên trong khi bố kết hôn 4 lần và có nhiều con khác.

8. Từ 1469 đến 1477 (có tài liệu là từ 1466): được bố đưa đến Florence, theo học vẽ nội trú tại xưởng của Andrea del Verrocchio – một họa sĩ, nhà điêu khắc khá nổi tiếng thời đó.

9. Từ 1477: trở thành họa sĩ độc lập, có xưởng vẽ riêng, được đăng ký tên trong Phường thợ vẽ của thành Florence.

10. 1482 – 1483: được nhà cầm quyền Medici ở Florence bảo trợ.

11. Từ 1483: đi Milan làm tượng đài kỵ sĩ cho nhà cầm quyền Sforza (không hoàn thành).

12. 1495- 1497: vẽ tranh tường nổi tiếng Bữa ăn tối cuối cùng (còn gọi là The Last Supper, La Cène, Bữa tiệc ly, Cuộc hội kín…) trong nhà thờ Santa Maria della Grazie do Sforza đặt hàng (nay cả nhà thờ lẫn tranh đều được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới). Năm 1499 vua Pháp Louis XII chiếm Milan, định sai cưa tường đem tranh về Pháp vì thích quá (nhưng bất thành).

13. 1503- 1506 (có tài liệu cho là 1503- 1516): vẽ chân dung nổi tiếng La Gioconda, còn gọi là Mona Lisa.

14. 1504: cha mất, sau đó phải về Florence nhiều lần để ra tòa về việc phân chia tài sản thừa kế với 7 anh em trai cùng cha khác mẹ.

15. Từ 1507: chính thức trở thành kỹ sư và họa sĩ của vua Pháp Louis XII nhưng vẫn làm việc tại Milan (do Pháp chiếm đóng). Nghiên cứu giải phẫu cùng Marcantonio della Torre. Vẽ chân dung tự họa bằng sanguine (chì sáp nâu đỏ) khi gần 60 tuổi (hiện trong sưu tập của Thư viện Hoàng gia Biblioteca Reale ở Torino).

16. 1512 đến Roma, vẽ tại tòa thánh Vatican.

17. Từ 1516 sang Pháp theo lời mời của vua Pháp, ở lâu đài Cloux (Clos-Lucé) ở Amboise. Thực hiện một số công trình kỹ thuật và vẽ 2 bức tranh nổi tiếng khác là: LedaĐức Mẹ đồng trinh trong hang đá.

18. 1518: vua Pháp Francois I mua bức La Gioconda qua môi giới của Salai- học trò của ông (theo tài liệu của Bảo tàng Louvre công bố năm 2005).

19. 1519: chết, thọ 67 tuổi. Đã làm di chúc trước khi qua đời để chia thừa kế cho các học trò đã tận tuỵ theo thầy đến cùng. Trò ngoan Francesco Melzi được thừa kế toàn bộ tài liệu và các cuốn sổ tay ghi chép nghiên cứu của thầy (theo sách Leonard de Vinci của tác giả E. Crispino, NXB Grund 2003). Trò hư Salai được thừa kế bức tranh La Gioconda, ngay năm đó đã bán cho vua Pháp Francois I lấy 4000 đồng tiền vàng (theo Wikipedia, bản tiếng Việt).

 

Hồ sơ tác phẩm “LA GIOCONDA” của Leonardo da Vinci

1. Tên tranh: La Gioconda (tiếng Ý) nghĩa là: Bà vợ ông Giocondo.
La Joconde (tiếng Pháp), cũng nghĩa như trên.
Mona Lisa nghĩa là: Quý bà Lisa.
Lisa del Giocondo nghĩa là: bà Lisa, vợ ông Giocondo.
Hiểu đầy đủ hơn thì đó là: Chân dung bà Lisa Gherardini, vợ ông Francesco del Giocondo.

2. Mục đích vẽ: theo đơn đặt hàng, vẽ bà vợ yêu của ông Giocondo – nhà buôn tơ lụa của thành Florence – để treo mừng nhà mới.

3. Chất liệu: sơn dầu trên gỗ dương (poplar hay peuplier: cây dương, còn gọi là dương lá rung hay bạch dương, một loại thực vật xứ lạnh, hạt kín, có hoa, rụng lá về mùa đông nhưng không phải thông. Gỗ dương cứng, màu trắng hơi ngà, thớ mịn, nhẹ mà bền. Hy Lạp cổ đại và châu Âu trung cổ dùng làm khiên, bảng pha màu, ván ép, đàn guitar, đàn harp, bột giấy. Ấn Độ hiện đại dùng làm gỗ dán).

4. Kích thước: 77 x 53cm, tấm gỗ dày 1,3cm, tranh theo chiều đứng.

5. Địa điểm vẽ: ban đầu tại xưởng vẽ của Leonardo ở Florence. Hàng ngày xe ngựa chở bà Lisa đến để vẽ trực tiếp. Về sau tác giả chỉnh sửa tiếp không cần mẫu nữa.

6. Đặc điểm nhân vật: không phải là thiếu nữ 18 mà là thiếu phụ, đã qua thời xuân sắc nhưng vẫn còn đằm thắm, duyên thầm. Sắc đẹp chỉ vào loại trung bình khá, không sắc sảo rực rỡ, không có lông mày. Nhân đây xin lưu ý các độc giả: giá trị nghệ thuật không phải ở chỗ cứ vẽ nhân vật đẹp nhất thì thành kiệt tác, ngược lại cũng chẳng phải vì vẽ người xấu nhất mà tranh vứt vào sọt rác. Kiệt tác không căn cứ vào nhan sắc của người mẫu mà tùy thuộc vào tài năng của tác giả.

7. Quá trình vẽ: 1503- 1506 vẽ tại xưởng của tác giả ở Florence, sau đó bỏ bẵng 4 năm rồi sửa tiếp. Hoàn thành năm 1516. Giả thiết khác cho biết tác giả còn chỉnh sửa đến tận 1519.

8a. 1518 (theo sách La Joconde do Bảo tàng Louvre và tạp chí Connaissance des Arts hợp tác xuất bản năm 2005) vua Pháp Francois I mua thông qua môi giới là học trò Salai (theo thầy từ Ý sang Pháp), không rõ giá cả. Như vậy là mua trước khi tác giả mất.

8b. 1519 (theo từ điển trên mạng Wikipedia, bản tiếng Việt) vua Pháp Francois I mua lại của người thừa kế Salai (sau khi tác giả mất) với giá 4000 đồng florin vàng (tài liệu khác là đồng écu vàng) rồi treo trong lâu đài Fontainebleau. Vua Louis XIV cho chuyển tranh tới cung điện Versailles. Sau Cách mạng Tư sản 1789 được đưa tới cung điện Louvre để thành lập Bảo tàng quốc gia. Từ cuối 1799 Napoleon yêu thích tới mức sai lấy về treo trong phòng ngủ tại cung điện Tuileries. Từ 1804 trở lại Louvre đến nay.

9. Được đưa đi cất giấu nhiều lần tại các nơi trên đất Pháp vào thời chiến tranh Pháp- Phổ (1870- 1871), Đại chiến thế giới I (1914- 1918), Đại chiến thế giới II (1939- 1945).

10. Được công chúng Pháp biết đến rộng rãi từ nửa cuối thế kỷ XIX sau khi phái Biểu tượng (Symbolisme) ca ngợi hết lời trên các báo chí. Nổi tiếng khắp châu Âu sau vụ mất trộm năm 1911- 1913. Nổi tiếng khắp thế giới sau khi triển lãm tại Mỹ (1962- 1963) và Nhật, Nga (1974).

11. Hiện có 4 bức Gioconda và Mona Lisa khác:
1/ Prado Gioconda,
2/ Isleworth Mona Lisa,
3/ Vernon Mona Lisa,
4/ Reynolds’s Mona Lisa

Với nhiều nghi vấn: hoặc là bản vẽ thử của tác giả, hoặc là bản chép của các học trò, hoặc là bản chép có phần phóng tác hồi các thế kỷ XVI, XVII, XVIII. Các bản này đều giống về loại sơn và cách vẽ nhưng lại có ít nhiều khác biệt so với bản gốc về nền toan, đặc điểm nhân vật, trang phục, phong cảnh… Tất nhiên là không thèm kể vô số tranh chép ở nửa cuối thế kỷ XX.

 

 

 

 

12. Mất trộm và bị phá hoại:
– 21. 8. 1911 bị nhân viên bảo tàng là Vincenzo Peruggia (người Ý) lấy cắp mang về Ý vì cho rằng đó là tài sản của nước Ý chứ không phải của nước Pháp. 1913 trộm Peruggia định bán cho Bảo tàng Uffizi ở Firenzé thì bị cảnh sát Ý bắt. Sau đó nước Ý cho triển lãm tại Bảo tàng Uffizi và Roma rồi trao trả Pháp (theo luật quốc tế thì đó là tài sản của nước Pháp sau khi vua Pháp đã mua và trả tiền sòng phẳng).

 

 

– 1956 bị một khán giả hắt axit vào phần dưới tranh, phải mất rất nhiều công tu sửa.

– 30. 12. 1956 bị khán giả Ugo Ungaza Villegas (người Bolivia) ném đá làm mất một mẩu màu ở khuỷu tay trái (sau được tô lại). Kể từ 1957 tranh được che bằng kính chắn đạn.

– Tháng 4.1974 bị một phụ nữ tàn tật phun sơn đỏ vào mặt kính bảo vệ khi tranh đang bày tại Bảo tàng quốc gia Tokyo.

– 2. 8. 2009 bị một phụ nữ Nga ném một cốc trà bằng đất nung (mua tại quầy lưu niệm ngay tại Louvre) làm vỡ kính bảo vệ (may tranh không sao).

– Từ 6. 4. 2005 đến nay được bày riêng trên một bức tường ở Salle des Etats (vẫn trong Louvre), có kính chắn đạn, có điều hòa nhiệt độ và độ ẩm, có hàng rào ngăn cách, có 2 nam- nữ cảnh sát cao to đứng trực sát hàng rào để đề phòng khách lấn rào.

13. Lượng khách xem hàng năm: 6 triệu năm 2005, hơn 8 triệu năm 2011. Ai đã vào tham quan Louvre thì hầu như đều xem Mona Lisa, dù có người đã nhẵn mặt bức này. Hễ bảo tàng đã mở cửa thì bao giờ trước mặt tranh cũng có khoảng 30-50 khách đang chen chúc để xem với thái độ đau khổ vì đông quá.

14. Triển lãm tại nước ngoài
– 1913 bày tại Uffizi (Firenzé) và Roma-Ý, trước khi trao trả về Pháp.

– Tháng 12. 1962 đến tháng 3. 1963: triển lãm tại New York và Washington DC. Khoảng 2 triệu người đã đến xem tranh trong thời gian 3 tháng.

– 1974 đi triển lãm tại Tokyo (Nhật) và Mockva (Liên xô). Tại Tokyo mỗi ngày có 20.000 khán giả đến xem tranh.

15. Trị giá thực

– 4000 đồng florin (hoặc écu) vàng năm 1519, nghe đồn phải chở bằng 3 cỗ xe ngựa.

– 1962, trước khi đi bày ở New York, hai bên Pháp-Mỹ đã nhất trí mua bảo hiểm 100 triệu USD. Sau đó họ lại không mua mà chi dùng rất nhiều vào việc bảo vệ đến từng li cho tranh.

– 2009, người ta thử tính toán lại, có bù trừ lạm phát thì tranh trị giá khoảng 700 triệu USD. Nếu tin vào con số này thì đây là kỷ lục thế giới mọi thời đại, bỏ cách rất xa các giá tranh kỷ lục khác như tranh No 5, 1948 của Jackson Pollok, bán tháng 11. 2006 cũng chỉ đạt tới 140 triệu USD mà đã được coi như kỷ lục.

16. Chuyện thị phi

Bất cứ ai quá nổi tiếng đều bị ít nhiều điều tiếng thị phi. Bức tranh La Gioconda cũng là một điển hình cho chuyện này.

– Từng có nhiều ý kiến bác bỏ rằng người mẫu là Lisa- vợ của ông Giocondo và gán vai này cho khoảng 10 người khác, ví dụ như: nữ hầu tước Isabella d’Este, cô nhân tình Patrificia của nhà quý tộc Medici, con gái riêng tên là Caterina hoặc con gái ruột tên là Bianca Giovanna của nhà quý tộc Sforza hay một gái điếm cao cấp có biệt danh Hổ cái… thậm chí có giả thiết cho rằng chính tác giả đã tự họa mặt mình (!). Tất nhiên tất cả đều thiếu thuyết phục.

– Cũng từng có vô số chẩn đoán rất khó nghe rằng: người mẫu bị điếc, bị móm, bị đau răng, lại đang mang thai hay đang có tang hoặc đang… hứng tình, thậm chí là đàn ông giả gái hay… đồng tính.v.v… Thật là nhảm nhí vô độ! Xin các bạn đọc đừng bận tâm. Chúng ta không xem tranh vì mục đích ấy.


17. Tranh thị phi

Cũng vì ghen với kiệt tác quá nổi tiếng này mà nhiều hoạ sĩ đã vẽ tranh để nhại hay nhạo báng, điển hình trong số đó là:

– 1883 bị Eugène Bataille vẽ đả kích Mona Lisa đang ngậm tẩu nhả khói chữ O.

 

– 1919 bị Marcel Duchamp vẽ thêm râu ria lên một phiên bản, đặt tên là L.H.O.O.Q.

 

– 1930 bị Fernand Léger vẽ tranh lập thể, lấy tên là La Joconde với chùm chìa khóa.

 

– 1954 bị Salvador Dali tự họa đè lên phiên bản và thêm đôi tay lông lá đang cầm tiền, đặt tên là Self portrait as Mona Lisa.

 

– 1963 bị Andy Warhol làm tranh in lưới cùng một lúc có tới 29 hình Mona Lisa và đặt tên là Thirty are Better than One (30 tốt hơn 1).

 

– 1971 bị Rick Meyerowitz vẽ tranh affiche Mona Gorilla với đầu đười ươi.

 

– 1974 bị Terry Pastor vẽ tranh Magritta Lisa bị lấp mặt sau quả táo xanh.
– 1974 bị Chester Browton vẽ tranh A Chip Off the Old Block với cô gái tóc trắng hở ngực đang ngồi trước bức La Gioconda bị buộc 2 vòng dây đỏ.
– 1977 bị Rita Greer vẽ tranh Mona Lisamouse với đầu chuột.

 

Mona Lisa của họa sĩ Mai Trung Thứ

 

Đẹp là một khái niệm hấp dẫn nhưng rất khó thống nhất. Đẹp có thể cụ thể như số đo 3 vòng trong các cuộc thi Hoa hậu mà cũng có thể nhân tâm tùy thích như lời các cụ dạy. Chẳng ai bắt buộc được ai phải cùng thấy và thích cái đẹp giống y như mình bởi ý thích mỗi người là khác nhau. Thậm chí kể cả cô gái có số đo 3 vòng đều chuẩn cũng chưa chắc đã được coi là đẹp. Tuy nhiên, thi thoảng cũng có vài cái sự đẹp may mắn được đa số tán đồng. Trong lĩnh vực hội họa thì bức tranh La Gioconda của Leonardo da Vinci có lẽ cũng may mắn như vậy. Và dù cái Đẹp chưa bao giờ có quy chuẩn chắc chắn và duy nhất, người ta vẫn có thể bình xét. Trong trường hợp này, với một tác phẩm mỹ thuật, chúng tôi dự tính xét theo 2 hướng: ngoài chuyên môn và trong chuyên môn.

A. Bình xét theo những lý do ngoài chuyên môn

1. Đẹp vì danh tiếng lẫy lừng của tác giả

Vâng, đó chính là nhà khoa học và nghệ sĩ thuộc loại nổi tiếng nhất không chỉ của thời Phục Hưng mà còn của toàn bộ nền văn minh nhân loại. Ông để lại cho đời vô số phát minh và nghiên cứu, dù không hẳn đã thành công và hoàn thiện hết, nhưng luôn được tất cả các trí thức đời sau ngưỡng mộ. Do tài năng kiệt xuất lại đa dạng nên ông có quá nhiều mối quan tâm để nghiên cứu, sáng tạo và đạt thành tựu trên hầu hết các lĩnh vực. Với khoa học, ông đã khai sinh môn Phỏng sinh học và đặt nền móng cho môn Khí động học. Với kỹ thuật, ông từng thiết kế pháo đài, cầu cống, máy bay trực thăng, tàu lượn, tên lửa, máy bắn đá, xe tăng, sư tử máy.v.v… Với nghệ thuật, ông góp phần quan trọng đặt nền móng cho các môn Giải phẫu tạo hình, Hình họa, luật Xa gần…Ngoài tài chẵn về mặt khoa học và nghệ thuật, ông còn có vô số tài lẻ ở trình độ quái kiệt đến mức gây kinh ngạc và mê hoặc lòng người: ông là nhạc công chơi đàn luýt xuất sắc, hát rất hay trong khi rất thích viết ngược bằng cả hai tay để bắt tất cả những ai muốn đọc thì đều phải soi gương cho chữ xuôi trở lại! Mọi sản phẩm sáng tạo của ông, trong đó có những bức tranh, đều là những kỳ công rất đáng chiêm ngưỡng. Chúng đã đẹp còn đẹp hơn nhờ danh tiếng lẫy lừng của tác giả.


2. Đẹp vì đẳng cấp đệ nhất thế giới của Bảo tàng Louvre

Đó là bảo tàng nghệ thuật thuộc loại lớn nhất thế giới với bộ sưu tập tác phẩm mỹ thuật chất lượng nhất thế giới. Trước đây, khi thủ đô nước Pháp còn là thủ đô nghệ thuật của cả địa cầu thì Louvre luôn đứng đầu danh sách các bảo tàng sang trọng nhất. Giờ đây, Paris đã mất địa vị ấy nhưng Louvre vẫn luôn đón lượng khách tham quan vượt trội so với mấy bảo tàng lẫy lừng khác. Thống kê cho biết năm 2011 vừa qua, Louvre đón được hơn 8,8 triệu khách trong khi thứ nhì là Bảo tàng Anh đón được 5,8 triệu và thứ ba là Bảo tàng Metropolitan ở New York chỉ đón được 5,2 triệu khách.

Với 400 phòng trưng bày thường xuyên, Louvre luôn kiêu hãnh giới thiệu bộ sưu tập kỳ vĩ của họ mà trọng tâm là các tác phẩm nghệ thuật cổ đại và Phục Hưng. Mọi du khách khi đến Pháp đều có ước vọng leo lên tháp Eiffel và tham quan Bảo tàng Louvre, mà đã vào Louvre thì ai nấy đều muốn xem mặt bằng được nàng Mona Lisa! Đó cũng là Ưu tiên 1 và Đầu bảng danh sách kiệt tác của bảo tàng. Mỗi lần Louvre tự quảng cáo thì bao giờ hình ảnh Mona Lisa cũng xuất hiện trước tiên. Tranh đẹp lại càng đẹp hơn khi đứng đầu đẳng cấp Đệ nhất thế giới bảo tàng.


3. Đẹp vì được vua của một cường quốc văn hóa mua với giá cao ngất!

Vua Pháp mua bức La Gioconda năm 1519 (hoặc 1518). Đấy là hồi đầu thế kỷ XVI, thế kỷ mà Pháp bắt đầu quá trình trở thành cường quốc ở Tây Âu. Tất nhiên ở đó không chỉ có Pháp mà còn có cả Anh, Đức, Tây Ban Nha – và Pháp không phải là mạnh nhất về quân sự. Thế nhưng sự chịu chơi về mặt văn hóa nghệ thuật thì Pháp lại vượt xa các nước kia và chỉ thua kém Ý chút ít. May thay Ý lại đang bị chia cắt thành nhiều tiểu quốc nên vị thế kém hẳn và đành bị Pháp vượt mặt vào các thế kỷ sau. Thậm chí Pháp đã trở thành Cường quốc số 1 thế giới về Văn hóa Nghệ thuật suốt các thế kỷ XVII, XVIII, XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Điều ấy đồng nghĩa với việc vua hay tể tướng Pháp đã mua tranh nào thì tranh ấy chắc chắn phải đẹp! Đương nhiên đẹp nhất trong số đó phải là tranh La Gioconda vì đã được mua với giá 4000 đồng tiền vàng. Đó là cái giá trên trời, có thể gây khiếp đảm cho mọi người vì tranh rất bé, chỉ cỡ 77 x 53cm thôi.

Cùng thời Phục Hưng còn nhiều tranh nổi tiếng khác, cũng có giá rất đắt nhưng kích thước thì quá to như tranh trên vòm trần Thánh đường Sixtine của Michelangelo (13 x 36m), tranh Trường Athen (3m03 x 7m70) và Madona Sixtine (2m63 x 1m96) cùng của Rafaello, tranh Primavera (2m03 x 3m14) và Vệ nữ giáng sinh (1m72 x 2m78) cùng của Botticelli, tranh Đêm thiêng của Coreggio (2m56 x 1m88). Như vậy chỉ có bức La Gioconda đắt nhất vì mỗi cm vuông của nó được trả suýt soát 1 đồng tiền vàng! Đấy là chưa kể theo quy luật tiền-hàng-tiền của tư bản thì các tranh trên vòm trần Sixtine của Michelangelo và Trường Athen của Raffaello phải bị loại vì bất động sản (nhà cửa) không vận chuyển được thì buôn bán và nâng giá làm sao đây?


4. Đẹp vì gây tò mò nhiều nhất

Cả thế giới phương Tây sửng sốt vì vụ mất cắp năm 1911. Tranh bị trộm cắp thì nhiều nhưng toàn vì lý do tiền bạc. Lần này tên trộm Peruggia lại lấy tranh nhân danh lòng yêu nước mới thật là cao siêu! Tất nhiên cuối cùng tranh vẫn trở về Pháp nhưng công luận mãi mãi tò mò về trường hợp mất cắp đặc biệt này.

Mặt khác, như đã trình bày ở trên, bức La Gioconda và nhân vật Mona Lisa đã gây ra muôn vàn thị phi mà điều đáng nói ở đây là các thị phi này chưa bao giờ dứt: cứ mỗi năm lại có thêm hàng chục nghi vấn mới, dù đa số tào lao nhưng đủ gây tò mò cho cả thế giới. Có người lý giải vì tranh đẹp quá nên gây ra nhiều ghen ghét.


5. Đẹp vì nổi tiếng nhất và giá đắt nhất thế giới

La Gioconda là bức tranh duy nhất mà chính phủ của 3 siêu cường là Mỹ, Nhật và Liên Xô phải bỏ tiền ra thuê riêng, bày riêng để cho quốc dân xem. Báo chí cho biết dù ở New York, Washington DC, Tokyo hay Mockva thì dân chúng cũng đều phải xếp hàng rồng rắn đến xem và hôm nào cũng có người phải khóc nức nở ra về vì tối rồi mà vẫn không đến lượt! Vậy thì đương nhiên đó phải là bức tranh nổi tiếng nhất thế giới – mà từ nổi tiếng nhất đến đẹp nhất thường chỉ cách nhau có một ly!

Năm 1962 tranh được hai bên Mỹ- Pháp nhất trí định giá bảo hiểm 100 triệu USD. Năm 2009 các nhà nghiên cứu tính lại, có bù trượt giá thì nó vọt lên tới 700 triệu USD! Chắc chắn đó là kỷ lục thế giới mọi thời đại cho giá tiền một bức tranh. Mức giá khủng khiếp ấy làm câm nín mọi phản bác. Đa số tuyệt đối nhất trí tin rằng nó đẹp nhất thế giới! Bất cứ ai chê đều bị cho là ấm đầu, cùn hay nhẹ nhất cũng là thiếu hiểu biết…

 

B. Bình xét trên cơ sơ chuyên môn

Có khá nhiều tiêu chí chuyên môn nhưng chúng tôi xin bỏ qua các tiêu chuẩn cơ bản kiểu “sạch nước cản” mà chỉ tập trung vào những gì căn bản nhất hoặc vượt trội, trên tầm nghệ thuật của kiệt tác này.

1. Giá trị ĐỘC BẢN

Nếu tác phẩm Văn chương, Âm nhạc, Sân khấu, Điện ảnh có thể in ra, diễn đi, chiếu lại hàng nghìn, hàng vạn lần mà người xem vẫn thấy hài lòng thì với Hội họa không ai dám khoe đã xem phiên bản của một bức tranh. “Đã xem bản gốc chưa mà đòi vênh?” – đồng nghiệp sẽ hỏi như vậy. Tất nhiên văn, nhạc, kịch, phim cũng có bản gốc viết tay của tác giả nhưng nếu không in ra hay không trình diễn hoặc trình chiếu thì chắc chẳng ai xem (trừ gián điệp và tòa án). Chỉ có Hội họa (và phần nào đó của Điêu khắc – chúng tôi sẽ bàn vào dịp khác) là ngành nghệ thuật duy nhất có tiêu chí Độc bản (hoặc Nguyên bản). Mọi tranh chép và in, dù đẹp đến đâu chăng nữa, cũng đều bị coi là hạng nghiệp dư và chỉ dùng để tham khảo vì dấu ấn sáng tạo và thực chất đã không còn!

Mặt khác, vẫn theo quy luật tiền-hàng-tiền của tư bản thì AI LÀ CHỦ SỞ HỮU CỦA BỨC TRANH GỐC sẽ giá trị hơn nhiều so với chủ sở hữu của văn bản gốc hay bản nhạc gốc, kịch bản gốc vì tranh gốc chắc chắn là tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, còn văn-nhạc-kịch-phim buộc phải in-diễn-chiếu mới trở thành tác phẩm hoàn chỉnh, mới có công chúng.

Như thế thì bức tranh La Gioconda trong Bảo tàng Louvre là báu vật độc nhất vô nhị. Ai thích thì phải đến tận nơi mà xem tận mắt. Giả sử có bức thứ 2 tương tự thì ai còn trả 4000 đồng tiền vàng hay bảo hiểm 100 triệu USD làm gì nữa? Tiền cực đắt là vì người ta đành cắn răng trả cho báu vật duy nhất ở tầm cỡ thế giới, ở đây có lẽ là bức tranh đẹp nhất.


2. Đẹp vì tranh và nhân vật rất CÓ THẦN, như muốn tâm tình với khán giả

Tiêu chuẩn số một của tranh chân dung là phải giống, bất kể tác giả của nó theo trường phái nào: Hiện thực, Ấn tượng hay Lập thể… Thế mà tự các họa sĩ đều biết- nếu vẽ chân dung thì đa số sẽ vẽ chỉ nhang nhác là cùng vì chưa đủ trình độ chủ động diễn hình; thiểu số khá hơn sẽ vẽ giống ngoài mặt; chỉ rất ít họa sĩ có thể vẽ không những giống mà còn CÓ THẦN. Đây là từ chuyên môn của giới mỹ thuật, xin các độc giả tạm hiểu điều đó là NHÂN VẬT có NỘI TÂM, có THẦN THÁI và CÁ TÍNH, TRANH HẤP DẪN.

Cụ thể trong bức La Gioconda thì nhân vật ở thế đối diện với khán giả và dù câm lặng vĩnh viễn thì nàng Mona Lisa vẫn luôn có cái nhìn tươi tắn đầy gợi cảm như muốn đối thoại kiểu tâm tình với người xem. Những ai yêu thích thể loại tranh chân dung đều biết có vô vàn cách biểu hiện mặt mũi trong tranh nhưng cái cách mà nàng Lisa dịu dàng, đằm thắm, đầy nữ tính với cái nhìn tinh tế như thấu tận tâm can của mỗi người xem thì cực hiếm trong thể loại này. Đó chính là cái THẦN ít khi có được. Ngay cả với họa sĩ lớn cũng chỉ khi nào họ thăng hoa mới có thể xuất thần mà vẽ có thần.

 


3. Đẹp vì có thứ tự ưu tiên về đậm nhạt, làm nổi bật gương mặt và cơ thể phụ nữ

Toàn bộ tranh màu sẫm, do vậy mà mặt và phần ngực trên – với màu sáng – đã nổi bật trên trục dọc chính giữa bức tranh. Hai mảng này càng nổi hơn khi được bao quanh bằng các mảng tóc và ngực áo được nhấn đậm một cách sắc sảo. Để gây hiệu quả tập trung, tác giả đã chủ động dìm cả mảng trời xuống một độ. Dù cả áo, tóc và nền đều tối song tác giả vẫn khéo léo cho ta nhìn thấy đường chu vi cơ thể uốn lượn, ẩn hiện một cách tinh tế.

Tranh của Leonardo rất rõ thứ tự ưu tiên về độ đậm nhạt: mặt và ngực sáng nhất, lại ở đúng trục dọc trung tâm, đôi bàn tay đậm hơn một chút, sau đó đến các lẩy sáng của mấy nếp áo, con đường và sông suối ngoằn ngoèo phía sau và cuối cùng là bầu trời mờ sáng phớt lạnh xa thẳm. Ngược lại độ đậm nhất tập trung quanh các mảng sáng nhất, cần ưu tiên nổi bật nhất: mặt và ngực. Độ đậm thứ yếu dành cho các mảng phong cảnh phía xa.


4. Đẹp vì tả được chất da thịt xuất sắc đến độ kỳ diệu

Về giới tính, nhân vật hấp dẫn trước hết ở phần ngực trên, tức là mảng sáng nhất trong tranh. Tác giả đã tả được một cách tài tình cái phần gợi cảm này. Ông vẽ cho ta thấy được làn da mịn, sáng, đầy sức sống và dường như có cả lớp mỡ mềm mại dưới da. Phần da mặt có đôi chút tối hơn và được đặc tả cho thấy vẫn mịn màng nhưng hơi đanh hơn vì bên dưới có các cơ mỏng và xương. Đôi bàn tay nàng lại đậm, nóng ấm hơn chút nữa và rất mũm mĩm đàn bà. Điều đáng nói là tác giả đã vẽ tay rất tài tình: chỗ đầy đặn da thịt, chỗ gợi tả đầu xương, chỗ phớt lạnh ẩn màu tĩnh mạch, chỗ ửng hồng đầu các ngón tay…

 

Chỉ xin nhấn mạnh rằng những mặt, ngực và tay ấy đã 500 tuổi rồi đấy! Thế mà vẫn mỡ màng đầy đặn đến tuyệt vời, bất chấp các vết nứt nẻ do thời gian. Thử liên hệ đến một số tranh chân dung của chúng ta xem: nhiều bức mới chỉ mươi – mười lăm tuổi đã bong tróc, xuống màu, khô xác bề mặt… Xin đừng có lặp lại một luận điệu hết sức ngây ngô rằng bậc danh họa này được hưởng những thành tựu tiên tiến nhất của nền công nghiệp phương Tây về chất lượng sơn dầu (nói theo kiểu Việt Nam là: “Vẽ đẹp vì sơn tốt!”). Thật sai lầm quá sức: ông vẽ bức này đúng vào thời buổi sơ khai của sơn dầu. Chỉ có khoảng hơn một chục màu gốc thôi, TẤT CẢ ĐỀU DO THẦY TRÒ HỌ TỰ NGHIỀN LẤY BẰNG TAY, VỚI CÁC CÔNG THỨC… TỰ MÒ CHỨ CHẲNG CÓ MÁY MÓC NGHIỀN SƠN NÀO CẢ, cũng chẳng hề có các tuýp màu phong phú như chúng ta mua sẵn ngày nay (nhà máy sản xuất sơn dầu đầu tiên chỉ xuất hiện vào thế kỷ XIX, tức là sau đó những 3 thế kỷ). Như vậy thì ông đã phải dùng loại sơn sơ khai, kém xa chúng ta bây giờ. Nhưng nếu xét hiệu quả thì ông ngạo nghễ đứng trên đỉnh cao còn ta thì… ngước lên từ đáy vực sâu. Chất lượng sơn dầu của ông vậy là hoàn toàn trông vào thủ công và sự tự tìm tòi, suy đoán. Chỉ riêng điều này thôi, chúng tôi xin ngả mũ bái phục và đoan chắc: ÔNG LÀ VĨ NHÂN!


5. Đẹp vì dám chơi kiểu rất khó: vẽ phong cảnh làm nền phía sau

Đa số các họa sĩ khi vẽ chân dung sẽ chọn nền là bức tường hay phông vải cho đơn giản để tập trung giải quyết mặt (là trọng tâm và khó hơn nhiều). Nếu nói trúng tim đen của họa sĩ thì “đánh vật” cho ra chân dung đã là mệt lắm, ai hơi đâu “đánh vật” thêm với phong cảnh phía sau làm gì? Cái khó là nếu cảnh xấu thì tranh thêm dở mà cảnh đẹp thì sẽ làm mất tập trung vào chân dung. Quả thật, trong suốt chiều dài của Lịch sử Mỹ thuật, rất hiếm họa sĩ cả gan vẽ thêm phong cảnh làm nền cho chân dung mà tranh vẫn thành kiệt tác. Số người thành công kiểu này chỉ đếm trên đầu ngón tay và lại đều xếp sau bậc kỳ tài Leonardo. Soi vào tranh, ta thấy ông dám liều chơi rất khó: chọn bối cảnh rộng bát ngát với trời mây, núi non, đường mòn, sông suối, cầu cống, cây cỏ… bao la, phức tạp và tinh tế. Tất cả đều đậm hoặc sáng vừa phải, lại có sắc màu ngả lạnh để đẩy ra thật xa và nhường ưu tiên cho nhân vật ở phía trước. Tác giả đã phát minh ra kỹ thuật sfumato, nghĩa là làm mờ- dịu- trong trẻo các ranh giới. Chính kỹ thuật này đã khiến ÔNG VẼ ĐƯỢC CẢ NHỮNG THỨ MÀ PHẦN LỚN CÁC HỌA SĨ KHÔNG VẼ ĐƯỢC: độ dày của bầu không khí mờ ảo man mác mà người xem cảm giác được từ sau lưng nhân vật đến tận núi non đằng xa. Về điểm này thì một số họa sĩ ta có vẽ cảnh làm nền cho chân dung nhưng hoặc là họ nhằm hiệu quả khác, hoặc họ chỉ đạt hiệu quả như phông nền vẽ giả trong tiệm ảnh để chụp kiểu đánh lừa mắt: cảnh phẳng lừ, bẹp dí, không có thứ tự lớp lang, không có độ dày không khí giữa nhân vật và phong cảnh.


6. Đẹp vì trình độ tỉa tót tinh vi đến mức kinh ngạc

Tưởng rằng tóc chỉ là tóc thôi, dù tác giả đã lẩy ra mấy sợi để tỉa kỹ các nét lượn xuống ngực thì cũng đâu có gì đáng nói. Nhưng soi kỹ hóa ra tóc còn trùm voan mỏng, hầu như trong suốt. Tưởng rằng áo chỉ là áo thôi, nào ngờ các nếp gấp ở tay áo được tả đến nơi đến chốn với cách tả khối phức tạp mà rất điêu luyện. Tưởng rằng cổ áo chỉ ôm lấy ngực thôi, ai ngờ cổ áo còn được thêu ren với những sợi chỉ kết thành hoa văn, đặc biệt sợi nào cũng có khối và đầy đủ bóng đổ xuống nền vải. Công phu là thế nhưng những sợi chỉ này lại cố tình không nổi bật để nhường ưu tiên cho những thứ khác cần nổi bật hơn. Người Việt ta vốn tự tin khéo tay hơn Tây mà chưa từng có ai cả gan vẽ kỹ đến thế! Đấy là chưa kể phong cảnh phía sau cũng được chăm chút đến các chi tiết như chiếc cầu rõ ba nhịp (và nhịp thứ tư thì mờ), khối núi bên vai rõ các vách sáng – tối nhưng tất cả lại thống nhất không quá nổi với màu nóng phía dưới thấp (gần như cùng hệ với màu trang phục), lên cao màu chuyển lạnh dần. Như vậy phong cảnh dù tỉa tót vẫn đảm bảo được trình tự lớp lang gần xa ăn ý, tương hỗ tuyệt hảo cho chân dung nổi ra phía trước.

7. Đẹp vì tạo ra được tới 3 ảo giác

Dù ta muốn tin hay không thì cũng phải thừa nhận: tranh không hấp dẫn số đông đến vậy nếu không có những yếu tố ma mị mà ở đây là các ảo giác.

Nụ cười bí ẩn là ảo giác thứ nhất. Đa số khán giả bị hấp dẫn bởi ảo giác này. Thực ra không có gì gọi là quá cao siêu khi tác giả chọn nụ cười mỉm- là khởi đầu của hành động cười nên ta càng nhìn thì hành động có vẻ như càng tiếp diễn và tất nhiên càng cuốn hút. Đây là phương án lựa chọn tối ưu trong mỹ thuật khi mô tả hành động, có từ thời Hy Lạp cổ đại.

Khác với các ngành nghệ thuật khác, mỹ thuật không diễn tả được một quá trình nên nó buộc phải chọn thời điểm. Thoạt tiên người ta chọn cao trào của hành động nhưng đa số thất bại vì quá khó khi nhân vật phải giang tay, vung chân, há mồm hết cỡ, trông rất phản cảm. Tai hại hơn nữa, thời điểm cao trào gây cảm giác sắp kết thúc nên xem càng lâu càng thấy hẫng hụt. Vì lẽ đó mà Hy Lạp cổ đại đã làm tượng Lực sĩ ném đĩa ở thời điểm lấy đà tối đa, khiến người xem có cảm giác thấy lò xo nén hết cỡ, chỉ tích tắc nữa là bung ra, chiếc đĩa sẽ vụt bay đi. Cái tài của cụ Vinci là không chỉ vẽ miệng cười mà mắt cũng cười và toàn thân toát lên vẻ tươi tắn. Mặt khác, nụ cười mỉm duyên thầm hơn và hợp với nữ tính hơn.

Đôi mắt luôn dõi theo từng khán giả, bất kể họ ở vị trí nào trước mặt là ảo giác thứ hai. Chúng tôi từng chứng kiến khá nhiều người khi vào xem Mona Lisa đã vội vàng chạy sang phải, dạt sang trái, công kênh nhau lên cao rồi nằm mọp sát đất, mắt vẫn không rời tranh. Hóa ra họ muốn kiểm chứng về đôi mắt nhân vật luôn chăm chú nhìn từng khán giả, bất kể họ đứng hay nằm ở đâu, miễn là trước mặt nàng. Kết quả đúng như vậy, với bất kỳ ai. Về cơ bản thì cách làm này không khó: chỉ cần vẽ hai lòng đen chính giữa đôi mắt nhìn thẳng thì đều tạo ra ảo giác tương tự. Tuy nhiên oái oăm ở chỗ nhân vật của Leonardo lại đang liếc về một bên, vậy mà nếu ta né sang bên kia thì nàng vẫn dõi theo ta không kém phần chăm chú. Có giả thiết cho rằng vì một trong hai mắt của nhân vật đã được đặt đúng vị trí trên đường trục dọc chia đôi tranh. Kể ra cũng khó loại trừ nhưng chẳng mấy thuyết phục. Và đây lại thêm một bí ẩn hấp dẫn nữa của tranh.

Có hai đường chân trời hơi vênh nhau ở hai bên là ảo giác thứ ba. Khán giả xem tranh sẽ thấy ngay chân trời bên phải, không thăng bằng mà hơi chếch. Chân trời bên trái thì ẩn nhưng bằng kinh nghiệm chuyên môn, các họa sĩ sẽ cảm giác được nó ở vị trí thăng bằng hơn. Thật khó khớp hai đường vì mối nối sẽ bị vênh. Tất nhiên trong nghệ thuật thì 2+2 chưa chắc đã bằng 4, nghĩa là đúng hay sai không phải là điều quan trọng nhất. Mặt khác, danh họa kiêm nhà khoa học như Leonardo chắc không kém đến độ vẽ sai đường chân trời. Chỉ có thể hiểu là ông đã cố tình. Và chính hai đường vênh nhau này lại tạo ra ảo giác khiến phong cảnh có vẻ sống động hơn, thoát được vẻ chết lặng, đồng thời nhân vật cũng có vẻ nhúc nhích đôi chút, đỡ ngay đơ như tượng. Vậy là ảo giác thứ ba giúp tăng phần sinh động cho tranh.

 

 

C. Sơ bộ kết luận

Vậy là theo thiển ý của chúng tôi thì kiệt tác La Gioconda của danh họa Leonardo da Vinci tuyệt đẹp vì 5 lý do ngoài chuyên môn và 7 hiệu quả chuyên môn. Tách bạch như vậy cho dễ phân tích chứ thực ra các lý do và hiệu quả đều có mối liên quan hữu cơ rất khăng khít. Đơn giản là nếu tác giả không tài năng kiệt xuất và tranh không đẹp thì sẽ chẳng có vua chúa nào thèm đoái hoài chứ đừng có nói đến việc chịu bỏ hàng đống tiền ra mua một cách hết sức lịch sự. Sau 5 thế kỷ, chỉ với bức tranh nhỏ này, vinh quang của tác giả đã lên tới tột đỉnh. Đây là bức tranh đắt giá nhất, được bảo vệ kỹ lưỡng nhất và đông người xem nhất thế giới. Thị phi càng nhiều thì lại càng như thêu dệt thêm cho Mona Lisa trở thành huyền thoại. Tranh góp phần tạo ra nguồn du lịch lớn lao cho nước Pháp và gián tiếp làm ra lợi nhuận không kém gì một nhà máy loại lớn nhất. Về mặt chuyên môn, danh họa Leonardo da Vinci để lại cho hậu thế một số bài học kỹ thuật kỳ diệu như hiệu quả và độ bền 5 thế kỷ của chất sơn tự chế, sự đột phá khi dám tả cảnh thiên nhiên làm nền cho chân dung, quái chiêu tạo ra các ảo giác… và trên hết, các khán giả đến xem tranh mà không biết rằng: ngược lại, chính họ luôn bị nhân vật nhìn như thấu vào tâm can bằng một cái nhìn lúc nào cũng dịu dàng, đằm thắm.

Bình luận về bài viết này